TÌM HIỂU Ý NGHĨA, NGUỒN GỐC VÀ CÁCH DỊCH TÊN GỌI CÁC CHỨC SẮC CỬU TRÙNG ĐÀI
HUỆ KHẢI
Thông thường chức
sắc – (P) dignitaire; (A) dignitary ([1])
– được hiểu là người có phẩm vị cao. Như thế, ý nghĩa của từng từ tố thường ít
được chú ý.
- Chức 職: Công việc
phải làm của một người.
- Sắc 色: Thứ,
hạng, loại, bậc.([2])
Xét theo nghĩa
của hai từ tố, khi nói chức sắc là đã bao hàm thứ bậc cao thấp, địa vị
trên dưới với phân định nhiệm vụ, chức năng tương ứng.
Chủ Nhật 04-10-1926
(27-8 Bính Dần), Đức Cao Đài dạy: “Còn nay Thầy giáng thế thì chọn đến: nhứt
Phật, tam Tiên, tam thập lục Thánh, thất thập nhị Hiền, tam thiên đồ đệ.” ([3])
Theo đó, có người hiểu:
- Nhứt Phật: một Giáo Tông;
- Tam Tiên: ba Chưởng Pháp hay ba Đầu Sư;
- Tam thập lục Thánh: ba Chánh Phối Sư và ba mươi ba
Phối Sư;
- Thất thập nhị Hiền: bảy mươi hai Giáo Sư;
- Tam thiên đồ đệ: ba ngàn Giáo Hữu.
Lễ Sanh không
được nhắc tới trong liệt kê trên đây; như thế, phải chăng Lễ Sanh chưa phải là
chức sắc thực thụ?
Về chức sắc
Cửu Trùng Đài, Tân Luật quy định như sau:
- Một Giáo
Tông chung cho ba phái Nho, Thích, Lão (Điều 1).
- Ba Chưởng
Pháp của ba phái (Điều 2).
- Ba Đầu Sư
của ba phái (Điều 3).
- Ba Chánh
Phối Sư của ba phái, với mười một Phối Sư cho mỗi phái (Điều 4).
- Bảy mươi hai
Giáo Sư của ba phái, mỗi phái hai mươi bốn vị (Điều 5).
- Ba ngàn Giáo
Hữu của ba phái, mỗi phái một ngàn vị (Điều 6).
- Lễ Sanh
của ba phái, không giới hạn số lượng (Điều 7).
- Luật công cử
từng cấp chức sắc (Điều 8).([4])
Căn cứ theo
tám điều nói trên, Lễ Sanh cũng được coi là chức sắc, tuy ở bậc chót.
Tân Luật còn quy định: “Phải vào Lễ Sanh rồi mới mong bước qua
hàng chức sắc.” ([5])
Hai chữ bước qua dường như gợi ý cho thấy rằng Lễ Sanh là
cái ngưỡng, là đường biên giữa tín đồ và chức sắc. Nói khác hơn, phải chăng Lễ
Sanh chỉ mới là chức sắc dự bị, chuẩn chức sắc?
Chưa biết khi
mới khai đạo Cao Đài, vị nào đã mượn các thuật ngữ giáo phẩm của đạo Thiên Chúa
để dịch tên gọi các chức sắc Cửu Trùng Đài ra tiếng Pháp. Có điều, cách dịch đó
đã được áp dụng trong thánh giáo Cao Đài buổi sơ khai. Chẳng hạn, đàn ngày thứ
Bảy 25-12-1926 (21-11 Bính Dần), Đức Lý Giáo Tông dạy một người Pháp là ông
Latapie như sau:
“Frère
Latapie. Je vous nomme Évêque d’équipe
française. C’est au rang des Giáo Sư que vous êtes placé.” ([6])
(Hiền đệ
Latapie. Lão phong cho đệ là Évêque trong nhóm người Pháp. Vậy, đệ được
đặt ngang hàng các Giáo Sư.)
Sau đây ý
nghĩa và cách dịch tên gọi các cấp chức sắc Cửu Trùng Đài sẽ lần lượt được phân
tích.
1. Lễ Sanh 禮 生
Thuật ngữ Lễ
Sanh xuất phát từ đạo Nho. Theo Mathews, Lễ Sanh là người chủ trì tế lễ trong
Khổng miếu (master of ceremonies at the worship in a Confucian temple).([7])
Tuy nhiên Mathews không cho một từ tiếng Anh tương đương để dịch thuật ngữ Lễ
Sanh.
Theo Paulus
Của, mục từ Lễ 禮, Lễ Sanh là học trò lễ, học trò gia lễ, những người học
tập việc lễ, để mà giúp cho kẻ khác.([8])
Giải nghĩa như
Paulus Của không phù hợp với chức năng của Lễ Sanh trong Cao Đài, nhưng cách
giải thích ấy lại tương ứng với nhiệm vụ của người hiến lễ, gọi là Lễ Sĩ.
Theo Pháp Chánh
Truyền, chú thích 1,([9])
thuật ngữ Lễ Sĩ do Đức Giáo Tông Vô Vi Lý Thái Bạch đặt thêm, để phân
biệt Lễ Sanh với người phụ giúp Lễ Sanh.
Lễ Sĩ 禮 士 có thể hiểu như người giúp lễ
(trợ tế); mượn thuật ngữ đạo Thiên Chúa có thể dịch là (P) Diacre hay
(A) Deacon. Từ này có gốc Hy Lạp là diakonos nghĩa là người phục
vụ – (P) serviteur; (A) servant – phù hợp nhiệm vụ của Lễ Sĩ là
người phụ giúp Lễ Sanh trong việc hiến lễ.
Vị dịch thuật
ngữ Lễ Sanh có lẽ đã hiểu từ này theo nghĩa là học trò lễ.
- Từ tố Lễ quy
định điều kiện phẩm chất (qualification) bắt buộc của Lễ Sanh. Có lẽ vì
vậy mà Tân Luật giải thích: “Lễ Sanh là người có hạnh, lựa chọn trong chư
tín đồ mà hành lễ”.([10])
- Từ tố Sanh
(sinh) cho thấy vị thứ đẳng cấp rất khiêm tốn, vì chỉ mới là học trò.
Lễ Sanh được dịch
là (P) Élève-Prêtre; (A) Student-Priest. Dịch như vậy xét ra rất
sát, vì élève và student (học trò, học sinh) đều diễn tả được sít
sao từ tố sanh.
Theo
Tân Luật,([11])
trừ khi được Ơn Trên phong, chức sắc phải tuần tự đi từ cấp Lễ Sanh tiến lên Giáo
Hữu rồi mới tiếp tục thăng cao hơn.
Vậy có thể
hiểu Lễ Sanh là cấp dự bị để làm Giáo Hữu; mà Giáo Hữu được dịch là (P) Prêtre
hay (A) Priest, do đó khi dịch Lễ Sanh là (P) Élève-Prêtre hay
(A) Student-Priest thì mặc dù có bỏ qua từ tố Lễ, nhưng lại phù
hợp với sự phân định trong Tân Luật, diễn tả được mối liên hệ giữa hai cấp Lễ
Sanh và Giáo Hữu.([12])
Nói thêm, khi
giảng sát nghĩa Lễ Sanh là học trò lễ thì chẳng khỏi có người e ngại
rằng từ học trò không cân xứng với vị thế phẩm chức sắc này. Vì vậy, có lẽ nên
giải thích rằng sanh (sinh) là người có học (learned man); Lễ
Sanh là người có học phụ trách nghi lễ (learned man in charge of rites).
2. Giáo Hữu 教 友
Giáo
là đạo, tôn giáo. Hữu là bạn. Giáo
Hữu là người bạn trong cửa đạo.
Theo Gustave
Hue, Giáo Hữu là giáo đồ, tín đồ (les fidèles).([13])
Theo Mathews, Giáo
Hữu là một thành viên trong giáo hội (church member).([14])
Theo Couvreur,
Giáo Hữu là những người có chung giáo lý hay cùng tín ngưỡng (ceux qui ont
une même doctrine ou une même religion); là thương yêu anh em mình (aimer
ses frères); là tình huynh đệ (amitié fraternelle).([15])
Như vậy, Cao Đài
đã mượn thuật ngữ Giáo Hữu (nguyên nghĩa là tín hữu, tín đồ, bạn đạo) nhưng
dùng với ý nghĩa mới. Theo Pháp Chánh Truyền, Giáo Hữu “là người thân cận
nhơn sanh hơn hết”; thì ý nghĩa thân cận này sẵn hàm ngụ trong từ tố
Hữu.
Mượn thuật ngữ
của đạo Thiên Chúa, Giáo Hữu được dịch là (P) Prêtre hay (A) Priest. Cách
dịch này không liên quan gì đến từ tố Hữu. Thông thường, Prêtre hay
Priest được hiểu là giáo sĩ, người giảng đạo.
Theo Paulus
Của, Giáo Sĩ là kẻ học hành, lãnh việc dạy học, dạy đạo lý.([16])
Tân Luật quy
định rằng “Giáo Hữu là người để phổ thông chơn đạo”.([17])
Như vậy, có lẽ người trước đã căn cứ chức năng, nhiệm vụ của Giáo Hữu mà dịch
là (P) Prêtre hay (A) Priest.
3. Giáo Sư 教師
Giáo
là đạo, tôn giáo, giáo lý. Sư là
thầy dạy.
Theo Mathews, Giáo
Sư là người truyền bá giáo lý (evangelist), là người thầy dạy đạo (teacher
of religion).([18])
Theo Paulus
Của, Giáo Sư là thầy dạy học, dạy đạo lý.([19])
Tân Luật quy
định rằng Giáo Sư có nhiệm vụ “dạy dỗ chư tín đồ trong đường đạo và đường
đời”,([20])
xét như vậy cũng phù hợp cách giải nghĩa của Mathews và Paulus Của.
Người trước
mượn thuật ngữ (P) Évêque hay (A) Bishop (giám mục) trong
đạo Thiên Chúa để dịch thuật ngữ Giáo Sư. Về từ nguyên, bishop có
gốc Hy Lạp là episkopos, nghĩa là người trông nom, người giám sát, coi
sóc (overseer, watcher).
Theo Tân Luật,
Giáo Sư có nhiệm vụ quản lý, trông coi các sổ bộ (sanh, tử, hôn phối, nhập môn,
trục xuất) của tín đồ, có quyền cai quản việc đạo trong phạm vi một châu thành
lớn.([21])
Như vậy, người trước có lẽ đã căn cứ theo chức năng trông coi của Giáo
Sư mà mượn thuật ngữ (P) Évêque hay (A) Bishop để dịch.
4. Phối Sư 配師
Nhiệm vụ của Phối
Sư không được ghi rõ trong Tân Luật. Tuy nhiên, Pháp Chánh Truyền giải thích: “Phối
Sư là người lãnh quyền của Chánh Phối Sư ban cho, đặng đồng quyền, đồng thể
cùng Chánh Phối Sư” nhưng lại hạn chế rằng “chẳng đặng làm điều chi
không có lịnh của Chánh Phối Sư truyền dạy; nhứt nhứt đều phải tuân mạng lịnh
của Chánh Phối Sư”.([22])
Như vậy, nhiệm
vụ của Phối Sư có vẻ mờ nhạt. Tuy nhiên Phối Sư thì cao hơn Giáo Sư một bậc,
cho nên khi đã dịch Giáo Sư là (P) Évêque, (A) Bishop thì cũng
phải lấy cấp cao hơn Évêque, Bishop một bậc để dịch Phối Sư. Do đó thuật
ngữ (P) Archevêque hay (A) Archbishop (tổng giám mục) của
đạo Thiên Chúa được mượn để dịch Phối Sư.
5. Chánh Phối Sư 正 配 師
Phối
nghĩa là xứng với, sánh ngang với,
tương xứng với. Theo Mathews, Phối là worthy, to match, to pair; phối
thiên địa 配天地 là the equal of Heaven and Earth (ngang cùng trời
đất, tề thiên địa).([23])
Tân Luật quy
định Chánh Phối Sư “đặng thế quyền cho Đầu Sư mà hành sự”.([24])
Vậy, phải chăng có thể hiểu sát nghĩa theo từng từ tố để giải thích rằng Chánh
Phối Sư là người đứng đầu (chánh) các Phối Sư, có thể sánh ngang cùng (phối)
Đầu Sư? Chánh Phối Sư được dịch là (P) Archevêque Principal hay (A) Principal
Archbishop.
6. Đầu Sư 頭 師
Đầu
nghĩa là đầu não, thứ nhất, trên hết,
quan trọng nhất. Theo Mathews, Đầu là head, top, chief, first, the
most important.([25])
Thuật ngữ
(P-A) Cardinal (hồng y) của đạo Thiên Chúa được mượn để dịch
thuật ngữ Đầu Sư. Về từ nguyên, Cardinal có gốc La tinh cardinalis là
chánh yếu (principal, highest in order of importance). Như vậy, cardinal
hay cardinalis tương xứng với từ tố Đầu trong thuật ngữ Đầu Sư.
7. Chưởng Pháp 掌 法
Chưởng
là nắm giữ, quản lý, coi sóc. Theo Mathews,
Chưởng là to manage, to control, to superintend.([26])
Từ tố Pháp có hai nghĩa:
- Tân Luật quy
định Chưởng Pháp “có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành”.([27])
Theo đó, pháp được hiểu theo nghĩa luật pháp (P: loi; A: law).
- Tân Luật quy
định chưởng pháp “có quyền xem xét kinh điển trước khi phổ thông; như có
kinh luật chi làm cho bại phong hóa thì ba vị ấy truất bỏ, chẳng cho xuất bản”.([28])
Theo đó, Pháp được hiểu theo nghĩa giáo pháp (P-A: doctrine).
Chưởng
Pháp được dịch là (P) Cardinal Légiste hay (A) Legist Cardinal.
Cũng có người dịch khác hơn: (A) Legislative Cardinal. Phân tích, thấy
rằng:
-
Cardinal là từ được dùng để dịch thuật
ngữ Đầu Sư. Vậy, tại sao lại còn dùng để dịch thuật ngữ Chưởng Pháp?
Phải chăng khoảng cách giữa Đầu Sư và Chưởng Pháp không lớn lắm vì, theo Tân Luật,
Đầu Sư cũng có quyền tranh chức Giáo Tông ngang như Chưởng Pháp.([29])
- (P) Légiste hay (A) legist, legislative chỉ
mới phản ánh nghĩa luật pháp của từ tố pháp.
Có lẽ thấy
cách dịch (P) Cardinal Légiste hay (A) Legist Cardinal là thiếu
(bất túc), rồi căn cứ theo nhiệm vụ kiểm duyệt kinh sách do Tân Luật quy định
(dẫn trên), người trước đã chọn thêm cách dịch thứ hai là (P) Censeur hay
(A) Censor. Sau này, một mục sư người Mỹ là ông Victor Oliver tỏ ra cẩn
thận hơn; ông kết hợp cả hai cách dịch Legist Cardinal và Censor mà
tạo ra từ Censor Cardinal.([30])
Censeur
hay censor do gốc La tinh censor
nghĩa là đánh giá, thẩm định (to assess). Vậy, (P) Censeur
hay (A) Censor hiểu theo nghĩa hẹp là người kiểm duyệt, hiểu theo nghĩa
rộng là người xem xét, thẩm định bất kỳ một văn kiện, tài liệu, ấn loát phẩm,
phim ảnh... trước khi nó được phổ biến để đảm bảo nó phù hợp với những tiêu
chuẩn đạo đức đã được ấn định.
Hiểu theo
nghĩa này, (P) Censeur hay (A) Censor phản ánh cả hai nhiệm vụ
của Chưởng Pháp mà Tân Luật quy định, bao gồm cả mặt luật pháp và việc xuất bản
ấn phẩm các loại trong đạo Cao Đài.
Tóm lại, dịch Chưởng
Pháp là (P) Censeur hay (A) Censor thì có lẽ đạt hơn là
(P) Cardinal Légiste, (A) Legist Cardinal và (A) Legislative
Cardinal.
Hoặc giả, noi
tánh cẩn thận của Victor Oliver, cứ dịch là (P) Cardinal-Censeur hay (A)
Censor Cardinal. Riêng nhà nghiên cứu Hoàng Anh Phan Văn Hoàng gợi ý thử
tạo ra từ mới là (P) Légiste-Censeur, (A) Legist-Censor.([31])
8. Giáo Tông 教 宗
Giáo
là tôn giáo. Tông là dòng dõi.
Thượng Đế mở đạo Cao Đài thì Trời là Giáo Chủ, cũng là Giáo Tổ khai sáng mối
đạo. Kế tiếp Giáo Tổ là Giáo Tông, nghĩa là dòng dõi của đạo.([32])
Nếu chấp nhận cách hiểu như vậy thì cũng vẫn khó tìm một từ tương xứng để dịch
thuật ngữ này. Mặc dù Tân Luật giải thích “Giáo Tông là Anh Cả”,([33])
nhưng không thể dịch Giáo Tông là (P) l’Aîné hay (A) the Eldest
Brother được.
Trong buổi đầu
khai Đạo, thuật ngữ (P) Pape hay (A) Pope (giáo hoàng) của đạo
Thiên Chúa đã được mượn để dịch thuật ngữ Giáo Tông. Người “khó tính” có thể
không bằng lòng với sự mượn từ này, vì lẽ Giáo Hoàng và Giáo Tông, về căn bản,
lại rất khác biệt.
Chẳng hạn, xét
về gốc từ: pape (pope) do gốc Hy Lạp pappas, gốc La tinh papa,
nghĩa là cha. Chính do nghĩa gốc này mà Giáo Hoàng còn được gọi là Đức
Thánh Cha (P: le Saint-Père; A: the Holy Father). Trong khi đó, Giáo
Tông Cao Đài là Anh Cả, còn Giáo Chủ (Trời) mới là Cha.
Vì có sự khác
nhau cơ bản như thế, người “khó tính” muốn tìm một từ khác để dịch thuật ngữ Giáo
Tông. Nhưng đến nay, hầu như vẫn chưa ai tìm ra một từ nào tốt hơn thay thế (P)
Pape hay (A) Pope.
Thực ra, việc
mượn từ của dân tộc này hay tôn giáo này để dùng theo nghĩa mới trong dân tộc
khác hay tôn giáo khác vẫn là chuyện xưa nay không hiếm; và mượn từ Pape hay Pope
để chỉ Giáo Tông cũng không là một biệt lệ của Cao Đài.
Trong tiếng
Mỹ, pope còn có nghĩa là một người được coi là có thẩm quyền chuyên môn
rất tin cậy (a person considered to have unquestioned authority). Do đó,
người Mỹ còn dùng từ pope để chỉ người đứng đầu một số tôn giáo không
phải đạo Thiên Chúa (the male head of some non-Christian religions). Vì
thế, Mathews ([34])
cũng như American Heritage Talking Dictionary đã dịch chức Thiên
Sư 天 師 (người đứng đầu đạo Lão) là the
Taoist Pope.
Cũng cần biết
thêm rằng Giáo Tông không phải là một thuật ngữ do Cao Đài sáng tạo.
Trước khi đạo
Cao Đài ra đời ba mươi năm, Paulus Của, mục từ Giáo 教,
đã giảng hai từ Giáo Hoàng và Giáo Vương là “Đức Giáo Tông”.([35])
Trước cả Paulus Của còn có một ấn bản năm 1884 của J. B. P. Trương Vĩnh Ký nhan
đề Petit Dictionnaire Français - Annamite.([36])
Theo đó, có thể nói rằng trước đạo Cao Đài hơn bốn mươi năm, Petrus Ký đã
nhiều lần dùng từ Giáo Tông để giải thích một số mục từ tiếng Pháp,([37])
như sau:
- Légat: khâm
sai (khâm sứ) Đức Giáo Tông.
- Papauté:
chức (vị) Giáo Tông; đời Giáo Tông trị. Aspirer à la Papauté: gắm ghé vị
Giáo Tông; trông lên chức Giáo Tông.
- Pape: Đức
Giáo Tông (...).
- Sa Sainteté:
Đức Thánh người (nói về Giáo Tông).([38])
Như thế xưa
kia, Giáo Tông nguyên cũng chỉ là một thuật ngữ khác đồng nghĩa với Giáo
Hoàng; cho nên sau này đạo Cao Đài dịch Giáo Tông là (P) Pape hay (A)
Pope thì cũng chỉ là kế thừa vốn cũ.
Từ cách dịch Giáo
Tông là Pape (Pope), có thể dịch thêm:
- Giáo Tông
Vô Vi: (P) Pape spirituel; (A) Spiritual Pope.
- Giáo Tông
hữu vi: (P) Pape temporel; (A) temporal Pope.
- Quyền
Giáo Tông: (P) Pape par Intérim, Pape Intérimaire; (A) Acting Pope.
Tóm lại, trên
phương diện ngôn ngữ, xét về nguồn gốc tám tên gọi chức sắc Cửu Trùng Đài, đạo
Cao Đài:
- Có lẽ đã
sáng tạo bốn thuật ngữ Phối Sư, Chánh Phối Sư, Đầu Sư, Chưởng Pháp.([39])
- Đã mượn của
đạo Nho và chữ Hán ba thuật ngữ Lễ Sanh, Giáo Hữu, Giáo Sư.
- Đã mượn của
đạo Thiên Chúa các thuật ngữ Giáo Tông, Prêtre, Évêque, Archevêque,
Cardinal, Pape (hay Priest, Bishop, Archbishop, Cardinal, Pope).
Việc mượn
thuật ngữ trong các nền văn hóa xưa nay là chuyện tự nhiên, bình thường; thiết
tưởng người “khó tính” không nhất thiết phải có thái độ úy kỵ. Điều nên lưu ý
là, tuy mượn từ của các nền văn hóa Nhị Kỳ Phổ Độ nhưng Cao Đài hiểu và sử
dụng các từ đó theo ý nghĩa riêng của Cao Đài trong Tam Kỳ Phổ Độ.
Đó là tính kế thừa có chắt lọc và sàng sảy vốn cũ đồng thời bổ sung vốn mới.
Riêng về sự kế
thừa các tên gọi hàng giáo phẩm đạo Thiên Chúa, phải chăng có thể nêu ra ít
nhất hai ý nghĩa đáng kể:
- Về mặt hình
thức, yếu tố này cho thấy, ngoài Tam Giáo phương Đông (Nho, Thích, Lão),
còn có tứ giáo là đạo Thiên Chúa trong nền tôn giáo tổng hợp Cao Đài. Điều này
cũng phản ánh phương châm của Cao Đài là kết tinh kim cổ, dung hòa Đông Tây.
- Về mặt nội
dung, yếu tố này phải chăng còn cho thấy rằng trong lúc Tam Giáo (Nho,
Thích, Lão) góp phần xây dựng nền giáo lý, nghi lễ, luật đạo tổng hợp cho Cao Đài
thì tứ giáo (Thiên Chúa) góp phần xây dựng cơ cấu tổ chức giáo hội vững
chắc cho Cao Đài.
Khi nhìn thấy
mối quan hệ này, sẽ hiểu rằng không phải vô cớ mà một nhà khoa học xã hội Mỹ là
nữ tiến sĩ Jayne Susan Werner (Viện Đại Học Cornell) đã nhận định như sau:
“Thực
vậy, trong số ba phong trào quần chúng lớn ở miền Nam thời Pháp thuộc, đạo Cao Đài
được tổ chức tốt nhất và thành công nhất.” ([40])
Giải thích mặt
mạnh ấy bà Werner viết:
“Hội
thánh Cao Đài cũng được tổ chức quy củ, khác hẳn với cách tu hành đang phổ biến
ở Việt
Chính nhờ tính
tổ chức vững mạnh, đạo Cao Đài sau bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, vẫn tiếp
tục hiện hữu cho đến ngày nay. Bà Werner viết:
“Đạo
Cao Đài có thể thu hút đông đảo quần chúng đích xác vì sự tổ chức vững vàng của
Đạo. Hơn nữa, cách tổ chức hàng giáo phẩm chức sắc của Đạo củng cố cho Đạo vững
mạnh, mà đó là một trong những yếu tố quan trọng nhất để đạo Cao Đài tiếp tục
hiện hữu ngày nay.” ([42])
20-9-1998
HUỆ KHẢI
* Đã đăng tạp chí Thông Tin Khoa Học Và Công Nghệ. Huế:
Sở Khoa Học, Công Nghệ Và Môi Trường Thừa Thiên - Huế, số 2(24)-1999.
([1]) (P): tiếng Pháp; (A): tiếng Anh.
([2]) Hầu Hàn Giang và Mạch Vĩ Lương (chủ biên). Từ Điển Hán -
Việt. Bắc Kinh: Thương Vụ Ấn Thư Quán, 1994, tr. 582.
([7]) R.H. Mathews. Chinese - English Dictionary Compiled for
the Chinese Inland
([8]) Huình Tịnh Paulus Của. Đại
([12]) Tương tự, người đi học ở trường sư phạm, tập sự để sau làm
giáo viên được gọi là giáo sinh: (P) élève-maitre; (A) student-teacher.
Cũng vậy, nhạc sinh là (P) élève-musicien; (A) student-musician. Người
học lái máy bay là (P) élève-pilote; (A) student-pilot. Khóa sinh
trường đào tạo sĩ quan là (P) élève-officier; (A) student-officer...
([13]) Gustave Hue. Dictionnaire Annamite - Chinoise -
Française, Imprimerie Trung Hòa, 1937, tr. 332, mục từ Giáo 教.
([14]) R.H. Mathews. Chinese - English Dictionary Compiled for
the Chinese Inland Mission, tr. 99, mục từ
719c-3.
([15]) F. S. Couvreur, s.j., Dictionnaire Classique de la
Langue Chinoise. Edition originale.
([18]) R.H. Mathews. Chinese - English Dictionary Compiled for
the Chinese Inland Mission, tr. 99, mục từ
719c-6.
([23]) R.H. Mathews. Chinese - English Dictionary Compiled for
the Chinese Inland Mission, tr. 697, mục
từ 5019; mục từ 5019-10.
([25]) R.H. Mathews. Chinese - English Dictionary Compiled for
the Chinese Inland Mission, tr. 941, mục
từ 6489.
([26]) R.H. Mathews. Chinese - English Dictionary Compiled for
the Chinese Inland Mission, tr. 22, mục từ
203a.
([32]) Thời xưa, các vua khai sáng xưng hiệu là Tổ (như Lê
Thái Tổ), các vua sau kế nghiệp xưng là Tông (như Lê Thái Tông, Lê Nhân
Tông, Lê Thánh Tông...).
([34]) R.H. Mathews. Chinese - English Dictionary Compiled for
the Chinese Inland Mission, tr. 20, mục từ
195h-5.
([36]) In lần đầu (1884), bán giá 3 đồng. (Nguyễn Văn Trung. Trương
Vĩnh Ký: Nhà Văn Hóa. Hội Nhà Văn, 1993, tr. 119.)
([37]) J. B. P. Trương Vĩnh Ký. Petit Dictionnaire Français-Annamite à l’Usage des Écoles et des Bureaux, réédité par J. Nguyễn Hữu Nhiên, ancien professeur des
collèges d’Adran, Chasseloup-Laubat et de l’Institution Taberd. Sài Gòn:
Imprimerie C. Ardin, 1937, tr. 432, 506, 610.
([38]) Chân thành cảm tạ nhà nghiên cứu An Chi tức Huệ Thiên Võ
Thiện Hoa đã giúp người viết tra cứu hai quyển từ điển cổ của Couvreur và P.
Trương Vĩnh Ký như dẫn trên.
([39]) Dè dặt nói có lẽ vì chẳng thể nào tra cứu hết các
loại từ điển chữ Hán để biết chắc rằng bốn từ này đã từng xuất hiện trước đạo
Cao Đài hay không.
([40]) “In fact, of the three major mass movements in southern
([41]) “The Cao Dai church was also highly organized, in contrast
to prevailing religious practice in Viet Nam at the time. Although small
religious sects practicing occultism and using mediums had existed in the
south, they did not display the same degree of organization nor the mass
following of the Cao Dai. Each Cao Dai priestly grade was endowed with a
separate and well-defined function, every aspect of which held a symbolic
meaning.” (J.S. Werner, Peasant
Politics and Religious Sectarianism …, tr. 7)
([42]) “The Cao Dai were able to attract a large mass following
precisely because of its strong
organization. Moreover, its routinized priesthood provided the sect with its
strength, which in turn is one of the most important factors in the continued
present-day existence of Caodaism.” (J.S. Werner, Peasant Politics and
Religious Sectarianism…, tr. 63)
Trích:
Huệ Khải, Một
Góc Nhìn Văn Hóa Cao Đài. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2011, tr. 51-66.
(Quyển 47.1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo, kỷ niệm đại
lễ Khai Minh Đại Đạo năm Tân Mão (2011).